Thứ Ba, 7 tháng 10, 2025

Mặc dù tôi dường như không phải là người đồng tính nữ, nhưng tôi thậm chí cho rằng hình tượng “nữ đồng tính” trong văn bản Éperons của Derrida đóng vai trò tương tự như Sophia trong thần học phủ định - người có thể được xem như hình ảnh so sánh phù hợp nhất với nhân vật “Trí huệ - Sophia” vốn từ lâu đã xuất hiện dưới dạng nữ tính hóa trong huyền học phủ định: trong truyền thống hậu cổ điển và Chính Thống giáo, nàng vừa là nhân cách nữ tính của trí huệ thần thánh, vừa là hiện hữu được quy chiếu qua con đường via negativa. Cái có thể được nói về nàng chính là vầng hào quang được gọi bằng tên “không thể được gọi tên” - một dạng chỉ định sự hiện hữu bằng phương thức phủ định.

Khi đặt hình tượng người nữ đồng tính của Derrida song song với Sophia, ta có thể nhận ra một cấu trúc chung: cả hai đều lấy “sự hiện diện trong vắng mặt” làm chiến lược hiện hữu; dùng trí huệ bị che khuất hay dục vọng bị phác lược để đối ứng lại bản thể luận phụ quyền. Đó là một vòng tuần hoàn không tuân theo kinh tế huyết thống của filial teleology, cũng không hoàn tất việc xác lập căn tính dưới “danh của Cha”. Trong phủ định, trong những đường nét phác thảo và tháo giải liên tục, nàng bảo tồn một thứ trung thành vừa thuộc về style vừa thuộc về đức tin : trung thành với cái hố được gọi là thiếu vắng, trung thành với khả thể ghi một chú giải khác ngay bên miệng hố đó.

Trong Éperons, kẻ được đặt vào vị trí trung tâm vừa như một bậc trí giả đáp lại danh xưng của Cha bằng lời không tên, vừa như một không gian viết được bảo vệ bởi ngôn ngữ phủ định - nơi dục vọng, hình thức và chuyển động lệch hướng của nàng trở thành một kinh nghiệm tư tưởng tương thông với thần học phủ định: tại chỗ phơi lộ ấy, lặng lẽ kiến lập một đạo đức và một khả năng nói được — đều được che chở bởi sự vắng mặt.

Từ khái niệm “ám ảnh Cha” (complexe paternel), nếu trở lại với nguyên ngữ tiếng Pháp, ta có thể phác sơ vài điểm quy chiếu thường gặp để tạo một bản đồ ngữ nghĩa: trong từ vựng phân tâm học, mối phức cảm của người nữ đối với người cha thường được gọi là complexe d’Électre, hoặc ở nghĩa rộng hơn, là biến thể nữ của complexe d’Œdipe; còn trong văn nói hay ngữ cảnh văn học, thường được diễn đạt bằng các cụm như attirance pour le père hay amour du père.

Khi đưa ngữ vựng này quay trở lại với Éperons, ta nhận ra Derrida không giản lược dục vọng nữ thành một mục chẩn đoán lâm sàng. Cấu trúc câu liên tục vang vọng “La femme sera mon sujet” (“Người nữ sẽ là chủ thể của tôi”), ghi khắc hình tượng ấy như một hành động inscription — tức một cơ chế khắc dấu vào chính văn bản. Từ đó, dị biệt giới trở thành một sự kiện được đọc và dịch chuyển trong văn thểdấu vết, chứ không phải một bản chất có thể được chỉ định trực tiếp.

Cách Derrida xử lý “người nữ” như một không gian viết được ông tinh chỉnh và tái cấu trúc giữa các phiên bản khác nhau của Éperons. Chính “khoảng cách” và câu “entre eux l’abîme” (“giữa họ là vực thẳm”) được phơi lộ giữa các phiên bản này đã mở ra trường vận hành cho hình tượng nữ đồng tính: nàng vừa là dấu vết được viết, vừa là chiếc cựa (éperon) làm rạn vỡ và kích hoạt lại trật tự - qua những nét lệch và dịch chuyển trong kết cấu, phơi lộ sự đứt gãy và khoảng trống của ký hiệu phụ quyền.






( dịch) Blanchot- một số suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thực

Phụ lục: Bài viết này được xuất bản lần đầu năm 1945 trên tạp chí L'Arche, số 8, với tựa đề "Một vài suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thự...