Thứ Bảy, 13 tháng 5, 2023

Harun Farocki


                                             Serious Games I: Watson is Down. 2010.

Christa Blümlinger writes: "Culturally, Harun Farocki belongs to this 'modern' cinema that has redefined the relationship not only between words and images, but also the use of sound. There is a new autonomy of the soundtrack in relation to the image track. The art of producing mental images from the montage makes Farocki's films similar to those of Godard or Straub-Huillet. In Farocki's work, the succession of two shots is not enough to free the charge of meaning, the 'shock' of the images comes instead through their resumption, their circulation with other images, accompanied by a distanced commentary." 

The inextinguishable fire, 1969 

It has been said that Harun Farocki is a sort of intersection between the imagination of Chris Marker and the rigor of Alexander Kluge. Or the opposite, I don't know. In any case, he is one of the filmmakers and thinkers of the image, for whom cinema has always remained a praxis, a "language that allows us to show the world and the way it functions through the cinema machine. 
The hundred of his films, incorporating a multiplicity of means of expression - photography, drawing, documentary image - and different forms - essay, fiction, direct cinema, installation - has never ceased to analyze the convergences of war, economy and politics within the social space, and their reframing through the production, use and reception of images in our societies. Hence his focus on operative images - military, industrial, penal - that do not involve the operator's body: those of the army's simulation tools (including in the context of "care" for the traumas of soldiers in Iraq); industrial optical technologies and surveillance techniques in prisons - cf. Auge/Machine I, II, III (2001-03) or Serious Games I-IV (2009-10), which positions video game technologies in the military context that constitutes their origin.
Farocki has been a political filmmaker since he was kicked out of the Berlin Academy in 1968. The Inextinguishable Fire (1969) begins with Farocki himself in front of the camera, sitting at a table reading the testimony given in Stockholm before the Vietnam War Crimes Tribunal. It describes the horrific experience of a Vietnamese man whose village was destroyed by napalm bombs and whose skin was badly burned. The narration of this experience says nothing about the conditions under which it happened or the conditions that allowed this image to be produced. Farocki posits of a here and now, he picks up a cigarette and crushes it against his wrist. "Harun Farocki's raised fist: an elevating thought to the height of an anger. Inextinguishable fire: the fist on the table and the cigarette burn."(Georges Didi-Huberman). When the napalm burns, it is too late to stop it. We must fight napalm where it is produced: in the factories. Dow Chemical. Michigan, USA. The film shows the process of the division of labor between technicians, scientists and workers who are unaware of the final result. The film fights the war in Vietnam from its root: the Western world.
The factory, he will return to it often, including when he uses the "primitive scene" of the cinema as a source. "The Lumière brothers' film Sortie d'usine (Factory Exit) lasted about forty-five seconds and showed the personnel of a photographic factory in Lyon-Montplaisir, about a hundred people, leaving the establishment through two exits, and during these last twelve months, I have been looking for all the variants to which this theme - "the employees leaving their place of work" - could give rise in the cinema. I found them in documentaries, factory documents and propaganda films, in weekly newsreels and feature films," he explains. It's an installation.

                                               Nothing Ventured, 2004

Harun Farocki did not only film the work in and out of the factories. He also filmed the making of images, the making of a Playboy photograph, as well as all kinds of entrepreneurial situations. "Endoctrination" (1987) tells of "managerial" training and its 1991 remake, "Re-education", takes up this theme in relation to the retraining of people in the former East Germany. More recently, he also filmed the negotiations between a venture capital company and a company that needed resources to develop a new product. The entrepreneur needs credit to launch the serial sale of a technical invention, the financial group wants to know if its money will be well invested. This anthropological look at a cell of today's economy was used.

                        Videograms of a Revolution, của  Harun Farocki và Andrei Ujica, 1992 .  


"The autumn of 1989 has remained in our memory with its succession of visual events: Prague, Berlin, Bucharest. From the images, it was the return of History. We saw revolutions. And the most completed revolutionary scenario was delivered to us by Romania, units of time and place included. From December 21, 1989 (Ceaucescu's last speech) to December 26, 1989 (the first televised summary of his trial), the events in Bucharest were filmed in their almost entirety. We gathered these different documents with the intention of reconstructing the visual chronology". With Andrej Utica, Farocki makes a film that puts the Romanian revolution into a new perspective and what the cameras make of it, those of hundreds of journalists and amateur videographers, who film the events of a revolution being realized through its media exposure.

With Farocki, it is a question of giving a second life to the image within a film, whether it is a photogram, an industrial document, or a historical archive. For this new approach to be possible, he allows a distance from the archives in order to see them in relation to each other. Everything is performed by confrontation, by assonance, by telescoping, by repetition, repeatedly.

Thus the resumption of "Images of the world and inscription of the war" (1988), associated with "In reprieve" (2007). "From different devices, the two films of Harun Farocki invite to this crossing of the visible" (Sylvie Lindeperg). 
Harun Farocki's signature film, 'Images of the world and the inscription of war', is an essay, introduced by the invention of photogrammetry, whose central motif is the aerial photograph of the Auschwitz camp taken by an American reconnaissance plane on April 4, 1944. In the photograph, analysts identified the blocks of the Buna industrial zone but not the extermination camp. "In Reprieve" exhumes rushes of an unfinished film shot in the camp of Westerbork (Netherlands) in 1944 by a Jewish prisoner. In contrast to the televisual transformation of the archive, the film draws on the minute traces left by the image and summons their off-field. The two bodies of images thus constitute an "in-between" and an entry point for questioning the place of visual knowledge in our knowledge of history and our ignorance.



"As early as 1942 in Germany, a television camera was installed on a remotely operated weapon. At that time, there was no technical means of recording electronic images and all that remained was the recording of a technician who filmed the monitor during a test flight.  It is not till 1991, on the occasion of the allied war against Iraq, that we could see for the first time images taken by cameras placed at the end of the projectiles. Camera bombs, suicide cameras aimed at their target. The images mostly showed deserted military installations or civilian bridges. No man in sight. It was later proven that many men were killed during this war and that in certain images that were not broadcast, there were men to be seen in the impact radius. (Harun Farocki, The View of War, Traffic #50)
Under the gaze of war, the production of images is intimately linked to both testimony and destruction.

Thứ Tư, 10 tháng 5, 2023

Phòng giam màu trắng

 



Rainer Werner Fassbinder giới thiệu bộ phim 'Die Sehnsucht der Veronika Voss' vào tháng 2 năm 1982, tại liên hoan phim Berlin [Phim nhận giải Gấu vàng], được ca ngợi là một trong những phim hay nhất trong số 40 phim của ông. Đêm muộn ngày 9 tháng 6 năm 1982, Fassbinder gọi điện thoại từ Munich đến Paris để nói với người bạn thân nhất của mình rằng anh đã ném tất cả ma túy xuống bồn cầu - tất cả trừ một phiến cocaine cuối cùng. Sáng hôm sau, Fassbinder được tìm thấy đã chết trong phòng, với điếu thuốc lạnh ngắt giữa những ngón tay của anh ấy cùng một chiếc VCR vẫn đang chạy. Nhà làm phim hiện đại người Đức nổi tiếng, được công nhận và có nhiều tác phẩm nhất qua đời ở tuổi 36.

Bị ấn tượng bởi sự tương đồng khoa trương của chủ đề bộ phim - cái chết của một người phụ nữ nghiện ma túy nặng  - và đạo diễn của nó, tôi đã không nhận ra rằng khoảng cách nhiều tháng giữa thời điểm thành công của bộ phim và ngày định mệnh này. Nhưng cuối cùng, nó có vẻ không quan trọng. Những người viết tiểu sử của Fassbinder, chẳng hạn như Robert Katz, đã tuyên bố " Veronika Voss là bộ phim nơi mà nếu có một người chết trẻ, nó sẽ báo trước một lối thoát". Sự phức tạp vô vọng mà Veronika Voss dẫn đến số phận nghiệt ngã của cô có lẽ là lời phát xét quả quyết nhất của Fassbinder dành cho Nước Đức. Một nước Đức thời Hitler và một nước Đức kế tục: nước Đức của Adenauer, nước Đức của những năm 1950. Fassbinder suy ngẫm về mối quan hệ của hiện tại (cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980) với nhiều "quá khứ" này, trên những tàn tích  của trình tự thời gian thông thường. 

Trong vài tuần nay, tôi muốn tìm nghĩa chuyển sát nhất của Sehnsucht, bởi ''nỗi nhớ'' là không đủ, bởi  mối quan hệ với điều xa lạ phóng chiếu nỗi thống khổ, bệnh nhớ nhà của cô trong điều kiện niềm khao khát đó kéo dài, từ longing hay yearning trong tiếng Anh cũng đặt dưới những giới hạn như vậy.

Tóm tắt: sau 2 phim của bộ ba Cuộc hôn nhân của Maria Braun và Lola, bộ phim được dẫn bởi một người "phụ nữ Đức" thứ ba vào giữa những năm 1950. Người này, sống ẩn dật, là nữ anh hùng bất hạnh của một câu chuyện bí ẩn nấp dưới màu đen, trắng và cơn mưa nhấn chìm thế giới, cô ta không được đặt chân ra ngoài- (bên ngoài là Munich) và tự giam mình trong các bức tường. Mặt dù ở phía trong này chỉ là bệnh hoạn. Veronika Voss là một nữ diễn viên điện ảnh lớn tuổi, cựu ngôi sao dưới thời Đệ tam Quốc xã, người sẽ mê hoặc(dẫu ta không thực sự biết bằng cách nào hoặc tại sao) một nhà báo thể thao ''trẻ'', Robert Krohn, người sau này dần dần phát hiện ra rằng ngôi sao này sống dưới ảnh hưởng của bác sĩ bạo dâm Katz, người đã cung cấp morphin cho cô nơi phòng khám tư nhân của bà ta và cuối cùng bỏ mặc để tận hưởng tất cả số tiền mà người này bơm từ cô ta, bằng cách để cô chết một mình. 

Nói thật, tôi không nhớ nhiều chi tiết của tuyến truyện khá ma quái. Nó bắt đầu bằng việc chiếu một đoạn phim trong phim, trong đó ngôi sao nghiện ngập xem trong chính phim của mình cuộc đấu tranh của một người phụ nữ cố gắng kiểm soát chứng nghiện morphine của bản thân, một vai mà cô ấy nhận ra, theo một cách biểu diễn, xảy ra trong chính hiện tại- hoặc đúng hơn là thất bại trong hiện tại. Những chuyển đổi qua lại này liên tục, phản ánh sự tàn lụi, không chỉ của thời đại, mà còn của sự đối lập giữa thực tế và phim ảnh. Cuối cùng, bóng ma của Gloria Swanson Norma Desmond ở Sunset Blvd ám ảnh Veronika Voss, nhưng nhà báo thể thao cũng mang bóng dáng của những nhân vật nam bị ám ảnh của Laura hay The Woman in the Window. Chính sự không rõ ràng và thậm chí tối nghĩa của Kohn( ngay cả trong việc tại sao anh tham dự vào vòng xoáy của Veronika) tạo nên cho phim một trung tâm trống rỗng và thận trọng. Xuyên suốt bộ phim, anh ấy vẫn là một nhân vật xa cách với hiện tại, không giống như Veronika, người luôn neo đậu trong quá khứ và mối quan hệ năng động của họ cho thấy một bức hoạ hai lưỡi của hành động chết người không thể cứu chuộc. Giống như nước Đức, họ đang cố tình chìm vào một cơn lốc mà kết quả tốt nhất của nó là sự mờ mịt, tệ nhất là bất khả thi.


Phim của Fassbinder ít nhiều có một hình mẫu, Sybille Schmitz, người có một vai nhỏ trong  Pabst's 1929 Diary of a Lost Girl  và trải qua sự nổi tiếng thần tốc tương tự trong Đệ tam Quốc xã. Nếu tôi hiểu không lầm, Fassbinder cũng muốn chuyển Sybille Schmitz từ rạp chiếu phim UFA này sang điện ảnh của ông,  như cách ông đã làm với Karlheinz Böhm hay Brigitta Mira, trước khi nhận ra rằng điều đó là không thể. Nữ diễn viên  tự tử vào năm 1955, năm mà Veronika Voss ít nhiều được tiền kì. 

Do đó, chính  Rosel Zech là người đã diễn giải vai chính của bộ phim noir- trắng này. Bởi vì cái hạn chế, cái ngột ngạt, cái xâm chiếm mọi thứ về mặt tâm lý không phải là mưa, cũng không phải tối, cũng không phải đêm, không phải ngọn nến cũng không phải bóng đen, mà chính là sương mù trắng xâm chiếm không gian, sự khuếch đại quá mức của ánh sáng, như mực bút xoá tẩy trắng mọi khung hình.

Ở Veronika Voss , màu đen, xám và mưa là lời hứa về sự sống, hay đúng hơn là sự bảo tồn sự sống. Ngược lại, màu trắng bóp nghẹt cuộc sống. Đó là sự giam cầm, được coi như một bộ giảm xóc mềm mại của bất kỳ đường biên nào. Tôi  nghĩ về màu trắng của Goya, về sự điên cuồng của sự giam cầm (một văn bản mà tôi sẽ viết). Như trong tranh Goya, màu trắng làm ô nhiễm , xâm chiếm hành lang, phòng tiếp tân, lan can cửa sổ, thậm chí cả tuyết đọng trên gạch. Màu trắng cũng di chuyển theo các nhân vật, từ áo cánh đến cổ áo, áo phông trắng của người da đen, đến ga trải giường. Trong căn phòng vô trùng, nước trong kính và gương biến không gian thí nghiệm này thành cái bẫy cho một thân xác. 

Tất nhiên, trong việc khuyếch đại màu trắng đang dần xâm chiếm phòng khám của bác sĩ Katz, vấn đề tạo ra một thế giới nhân tạo – giống như những thiên đường cùng tên – để ám chỉ hành động tiêu diệt cựu ngôi sao của điện ảnh Đức quốc xã, không chỉ bởi vì cô ấy đã già đi, mà còn bởi vì cô ấy đại diện cho quá khứ hiện tại phải bị lãng quên. Để làm chứng - nghịch lý thay - cho sự tẩy trắng lịch sử này, có một cặp khách hàng cũ của bác sĩ Katz đã đi qua các trại hành quyết và những vụ tự sát, đăng kí để xóa bỏ những dấu vết đáng xấu hổ kia. Nếu các phân vùng thời gian giữa Đức Quốc xã và quốc gia kế thừa của nó mờ dần, thì đối tượng trong giao điểm sẽ được coi là một bóng ma của cảnh tượng (một sinh vật của khói và gương) và là một người quan sát ám ảnh, hội chứng scopophilia đóng vai trò như ham muốn thống trị.




                                    


Felix Gonzalez-Torres, "Untitled" (Supreme Majority) , 1991. Tác phẩm sắp đặt, Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA), New York, NY. 30 tháng 6 2010 – 19 tháng 9 2011. Ảnh MoMA/The Felix-Gonzalez Torres Foundation.

Màu trắng đáng sợ này làm tôi nhớ đến tác phẩm của Felix Gonzalez-Torres, "Untitled (Supreme Majority), 1991. A. Người ta có thể bối cảnh hóa mảnh giấy, những tờ giấy cuộn lại thành hình nón, trong nước Mĩ của Reagan, và trỏ đến quyết định của Tòa án Tối cao ở Bowers kiện Hardwick  năm 1986, trong đó ủng hộ quyền của các bang được hình sự hóa hành vi kê gian, trong số các hành vi tình dục khác được thực hiện riêng tư giữa những người trưởng thành chấp thuận(một quyết định bị hủy bỏ vào năm 2003 bởi vụ án Lawrence vs. Texas) Nhưng trong bối cảnh hậu Quốc hội (và với vụ của Derk Chauvin) thì câu hỏi về quyền lực chính trị của chủ nghĩa tối cao của người da trắng không hề mất đi tính liên quan của nó.

                                                        Horizon, 1967, Philip Guston


Có thể đó là bởi hệ tư tưởng phân biệt chủng tộc đã vượt qua mọi ranh giới của bóng tối, dịch chuyển từ trắng sang trống, từ thành ngữ Anh được chuyển thành hình ảnh trên màn hình kỹ thuật số. 

Tôi đang suy nghĩ về câu chuyện của chủ nghĩa lãng mạn Đức: Peter Schlemihl (Adelbert von Chamisso, 1813). Người đàn ông đã bán cái bóng của mình và mất ý chí sống. Peter Schlemihl, một thanh niên thất nghiệp đã nhận một lời đề nghị - bởi một người đàn ông mặc đồ xám - để đổi cái bóng của mình cho một cái bị nhả vàng theo ý muốn.  Nhưng Schlemihl, sau khi trở nên giàu có, nhanh chóng nhận ra rằng kẻ không có bóng bị xã hội coi là khuyết tật. Anh ta chỉ còn cách thu mình trong bóng tối và trở thành một bóng ma trong đó. Nếu không có sự tự phóng chiếu luôn luôn , không có cái nhân đôi của cái tôi này, cái Horla này, cái đọc đi đọc lại này, cái phần bóng tối này, thì người ta chỉ trở thành cái bóng của chính mình.   

Đây là những gì xảy ra với Veronika Voss. Lạc lõng trong màu trắng này, Veronika Voss không có bóng. Cô ấy nói điều đó, như một câu trích dẫn trong câu ca cổ lãng mạn: "không có bóng thì con người không thể sống, vì anh ta không có bí mật." Điều đó có nghĩa là cô ấy không còn sống nữa, thậm chí không còn trong hình hài của hồn ma. 


Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2023

Tự hư cấu 1




Liệu đó có phải là một sự nhầm lẫn, thậm chí có thể là một hành động xuyên tạc của trí óc hay sự lạnh nhạt chủ ý trong những suy nghĩ của nó? Đối với chúng ta, dường như không chỉ cuộc sống vô nghĩa mà lương tâm con người giả sử có vô tình bùng nở giữa sự lầm lạc này chỉ có thể đau đớn nhận ra sự phi lý của nó bằng cách phò tá cho cơn hấp hối từ từ của xác thân đang che chở cho nó, làm mồi cho những điều xấu xa nhục nhã, cho cái chết của thế giới nơi cơ thể này rung lắc, thứ vốn được định sẵn để phân rã tuyệt biệt.

Sau đó là một kiểu tách rời, như thể tinh thần vượt lên trên những dằn vặt của vật chất và hoàn toàn thờ ơ với chúng.

Nhưng chính bờ biên đến cõi chết, khi người ta đầu hàng trước cái chết, khi người ta thực sự  bước khỏi thế giới này, không hối tiếc, như thể không có gì thực sự xảy ra, với cùng một cơn chuột rút và mỏi mệt chứng minh một sự thứ kích động đau đớn và vô vọng, với các bóng đèn của sự minh mẫn quá khích của chúng ta lần lượt nháy tắt và sự bàng hoàng cuối cùng là dấu kết của cuộc điều tra một loài người.

                                                                        *******

Thật kỳ lạ, chúng ta đánh giá vẻ ngoài và sức quyến rũ của mình hàng ngày chỉ qua tình trạng của mái tóc - như thể chính mái tóc quyết định sự hài hòa của các đường nét trên hình dáng vĩnh cửu này của chúng ta, ít hay nhiều hấp dẫn hơn, thậm chí sự trợ hỗ của lược hay gió cũng không thể thay đổi bất kỳ phẩm chất nào.

                                                                     *******

Vị trí thực sự của con báo là bên cạnh con báo.

                                                                    *******

Mặt trời và cái chết không thể nhìn thẳng vào nhau; không sao, những nghĩa trang khổng lồ dưới trăng đã dạy chúng ta đủ.

                                                                   *******

Các nhà văn vĩ đại, như thể họ đã phát minh ra một thể loại, sẽ sớm khơi dậy những kẻ bắt chước, những kẻ hành nghề. Văn học của họ là trường học và, nếu thiên tài của họ vẫn phân biệt, thư viện sẽ tràn ngập sách của họ, tiêu chuẩn của một tiêu chuẩn phổ quát mới. Trong khi tính độc đáo của một số nhà văn nhỏ, những bậc thầy nhỏ không có đệ tử, không bao giờ phai nhạt và sẽ hấp dẫn hơn đối với những bộ óc độc lập, những kẻ cô độc, những người chưa có kinh nghiệm về tình người trong một cộng đồng huynh đệ, mà đúng hơn là kinh nghiệm về một đàn chuột điên có hậu môn đã được khâu lại và lũ người nuốt chửng lẫn nhau một cách hung dữ.

                                                                  *******

Yêu tinh chúng tôi đều đồng ý ở điểm này, phần đẹp nhất của cô gái nhỏ là đôi cánh.

                                                                 *******

mê cung này
nơi tôi mệt mỏi là hang ổ
vũ công múa bụng

                                                                *******

Anh ấy muốn để lại trên trái đất này dấu ấn chiếc rốn của mình.

                                                               *******

Luôn có cách dễ dàng hơn để trả lời có cho tất cả các câu hỏi : Anh có đời sống vợ chồng không? Anh có con không? Anh có việc làm không? Anh có làm chủ không? Anh có xe hơi không ? Bất kỳ phản ứng tiêu cực nào cũng phải đi kèm với lời giải thích, hoặc thậm chí là biện minh. Nghịch lý thay, người ám ảnh xã hội sẽ chỉ tìm thấy bình yên nếu anh ta hòa nhập hoàn hảo vào xã hội, do đó tránh bị tra tấn liên tục bởi những điều tra viên của đời sống.

                                                              ******

Saber cưỡi ngựa, vị tướng này thà nấu chảy đồng của bức tượng để trang bị cho mình một khẩu đại bác quyết đoán hơn.

                                                            *******

Bị quấy rối về mặt đạo đức bởi những bộ óc tầm thường và những tâm hồn nhỏ nhen, tôi đang cân nhắc nghiêm túc việc đặt vấn đề này lên các siêu nhân.


                                                           *******

Bạn có biết rằng quả địa cầu đã dừng lại khi Galileo rút lui trước Toà án dị giáo? Mãi cho đến khi ông ấy tiếp tục ''và nó quay'' thì Trái đất mới tiếp tục các vòng quay của nó.
Giai thoại này đủ chứng minh, tôi nghĩ, lời nói quan trọng như thế nào. Nhà văn phải kết hợp chúng với nghệ thuật để tránh tai họa. Và tôi thực sự muốn nói ở đây với những người viết văn như một người tuyên thệ rằng họ sẽ không phản bội mối quan tâm cao đẹp của họ về tính xác thực khi lựa chọn cất tiếng thay vì im lặng.

                                                          ******

Bà cố Tôn Nữ của tôi, 108 tuổi, đã không được khỏe trong vài ngày. Bà không thể chịu nổi cái tên của mình nữa.

                                                          ******

Tôi đếm được 807 ngọn cỏ rồi dừng lại. Bãi cỏ đã rộng trở lại.

                                                          ******

Tôi viết để chiếm ít không gian hơn.


( dịch) Blanchot- một số suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thực

Phụ lục: Bài viết này được xuất bản lần đầu năm 1945 trên tạp chí L'Arche, số 8, với tựa đề "Một vài suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thự...