Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025

Động vật nhỏ và cái búa của Trái đất

Một số “phân tử Kafka” dường như cho rằng, trong “thế giới hiện đại”, ngay cả những kẻ thuộc hệ thống chính trị/chính quyền cũng chỉ là những sinh vật nhỏ bé yếu ớt và bất lực, bởi vì đã không còn tồn tại những trật tự tuyệt đối cổ điển như quyền lực hoàng đế hay thần quyền. Trong hoàn cảnh ấy, điều thiêng liêng đã vắng mặt, ngay cả thánh chỉ của hoàng đế cũng không thể truyền đạt, không thể có hiệu lực, các tiểu công chức cũng chỉ là những bánh răng vô danh, vận hành một cách vô tri trong cỗ máy phi lý khổng lồ này.

Nói như vậy, thật ra cũng không sai, nhưng cần cảnh giác trước một loại dâm uy nào đó mà những kẻ tuyên truyền quan điểm này đang cố tình che giấu.

Cánh tả tuyệt đối không phục tùng bất kỳ loại dâm uy nào, cũng không phục tùng cả sự vắng mặt của dâm uy; trái lại, cánh tả là những thanh niên khỏe mạnh luôn đi tìm khả năng hành động cụ thể.

Tôi đã nghe thấy lời cầu nguyện của các “phân tử Kafka” — những sinh vật nhỏ bé ấy đang than khóc — than khóc vì sợ bị tước đoạt đặc quyền được giả vờ vô tội, vô hại. Nhưng bánh răng đã bắt đầu vận hành trong sự cưỡng bức — những sinh vật nhỏ bé ấy buộc phải tiếp tục biến hình — gì cơ? Các ngươi, lũ người vô tội, chẳng lẽ chưa từng nghe qua sao? — Sinh ra tức là đã bị bức hại.

Nói đến dâm uy thì không thể không nói tới chủ nghĩa bảo thủ văn hóa (cánh hữu văn hóa).

Chủ nghĩa bảo thủ văn hóa kiên trì với giáo điều của Plato: “lời nói dối cao quý”, bao gồm cả khái niệm “viết ẩn dụ” của Leo Strauss — tức là để cai trị thiên hạ, người ta cần một hệ thống ý thức hệ (huyền thoại) để lừa gạt “chúng sinh” một cách tốt đẹp. Một dân tộc, hay nói rộng ra là một cộng đồng lớn, cần có truyền thống chất lượng cao của loài người để duy trì sự kế thừa chung. Xét về mặt từ ngữ, điều này dường như không có gì sai — con người là động vật xã hội, mà bộ máy xã hội lại bao gồm cả hệ thống ký hiệu — nhưng, tất cả phụ thuộc vào cách vận hành nó.

Deleuze và Nietzsche cũng nhấn mạnh đến “năng lực hư cấu” của sự sống. Deleuze nói rằng, những đạo diễn như Godard, gần như mỗi bộ phim của ông đều là sự sáng tạo lại một hệ thống phân loại và khái niệm riêng — chẳng phải có thể nói, mỗi bộ phim của Godard đều là một cuốn Hiện tượng học tinh thần hoặc Lôgic học, mà không hề trùng lặp sao?

Đây chính là sự khác biệt giữa cánh tả và cánh hữu: cánh hữu sùng bái sức mạnh, giỏi quỳ lạy “công nghệ cao và tinh vi”, giống như chủ nghĩa tư bản/trí tuệ nhân tạo đối với những người như Nick Land; còn cánh tả thì đi tìm tính chủ động, cánh tả lặn sâu vào tầng sâu im lặng của mặt đất, như thể lặn xuống địa ngục, và không ngừng sáng tạo lại cách ban bố trật tự “thực tại bề mặt”.

Rõ ràng là, rất nhiều người theo chủ nghĩa tự do da vàng (ám chỉ trí thức châu Á) sùng bái nền văn hóa Tây phương, bất kể là “cổ điển” hay “tiến bộ” (chẳng hạn như triết học Đức cổ điển thường được thần thánh hóa trong giới học thuật), sự sùng bái ấy không chỉ đơn giản là yêu thích hay học tập, mà là một sự quỳ lạy sùng kính trước cái gọi là “chân lý thiêng liêng”, và đây không còn là hiện tượng cá nhân hay sở thích cá nhân nữa.

Nghịch lý là, những kẻ sùng bái sức mạnh thường chỉ biết ngẩng nhìn mà không biết sáng tạo ra “giá trị”. Cái gọi là “thuyết ưu sinh” của họ, thực chất là sự khát khao để sinh mệnh nhỏ bé của mình bị cưỡng bức, bị sỉ nhục, bị loại bỏ.

Vậy triết học Nietzsche rốt cuộc là một lực lượng thuộc cánh tả hay cánh hữu? Gì cơ? Các ngươi — lũ người tiền sử — chẳng lẽ vẫn chưa nghe thấy sao? — Cây búa của mặt đất đang khởi động, đánh giá lại tất cả các giá trị.

Đúng như Nietzsche đã nói, chúng ta không tin vào những “sự kiện vĩ đại” ồn ào trên bề mặt (cái gọi là “công nghệ cao và tinh vi” hay các chỉ số thị trường chứng khoán), chúng ta — những tín đồ Dionysus — khắc ghi sức mạnh của mặt đất vào trong cuộc đấu tranh giai cấp.



Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2025

Về Logos và “thiên nhiên ẩm ướt,” hay mối quan hệ giữa trật tự phụ quyền và không gian mẫu tính

Trong tư tưởng cổ điển phương Tây, Logos là nguyên mẫu thiêng liêng đời đời (Ân Sư), còn thế giới tự nhiên ẩm ướt là sự thoái giáng bi kịch của nó—sự kiện khởi nguyên (mà Nietzsche gọi là “sinh ra đã chịu khổ”). Tuy nhiên không có sự chia cắt thật sự, vì Logos rồi sẽ trở về với tự nhiên (trong thần học Kitô giáo, qua sự Phục sinh của Đấng Christ—Con Thiên Chúa). Mẫu tính thiên nhiên phải tiếp nhận và bắt chước Logos: bà bị phân rã thành các nguyên tố rồi được tái tổ chức theo Logos. Việc tiếp nhận và bắt chước Logos ấy chính là Thần Khí (Chúa Thánh Thần).

Mô hình cứu rỗi mang tính sử thi và thần linh này đạt tới đỉnh cao trong Thần Khí Tuyệt Đối của Hegel: “đêm thế giới” chính là sự phân mảnh của mọi tính trực tiếp tự nhiên, còn quá trình thăng hoa biện chứng là chuyển động của Thần Khí Tuyệt Đối—một ma trận các phạm trù lý tính không ngừng được làm mới, đặt trật tự lên hỗn nguyên tự nhiên.

Tuy nhiên, trong triết học thế kỷ XX, thiên nhiên ẩm ướt hay không gian mẫu tính vẫn là một chất liệu chịu đựng lịch sử, nhưng Logos không còn là nguyên mẫu thiêng liêng bất biến. Thay vào đó, Logos, hay trật tự phụ quyền, chỉ là những lớp địa tầng lịch sử luân phiên, được khắc ghi vào mẫu tính tự nhiên dưới hình thức các giai đoạn lịch sử hữu hạn.

Xuất phát từ đó, Derrida và Kristeva tìm đến Timaeus của Plato để phục hồi khái niệm chôra—một “bình chứa” chịu đựng các địa tầng lịch sử và biến chuyển của trật tự phụ quyền. Kristeva phân biệt cõi tượng trưng (symbolic) với cõi ký hiệu (semiotic): cõi tượng trưng là Logos, trật tự ngôn ngữ; còn cõi ký hiệu là lĩnh vực trước ngôn ngữ, trước Oedipus, một không gian thi ca chưa được tích hợp vào trật tự phụ quyền. Derrida đặt hình ảnh Socrates vào vai chôra: ông mời gọi đối thoại biện chứng để hoãn lại mọi trực giác thông thường. Nhưng biện chứng của Socrates là sự lui bước chứ không phải thăng hoa—ông không tin mình có thể đạt đến Chân lý vĩnh hằng; ngược lại, ông tự nhận mình vô tri (trật tự phụ quyền không tồn tại). Vì vậy, biện chứng là một cuộc rút lui liên tục, mở ra không gian cho “sự sinh ra của Chân lý.” Đó chính là nghi ngờ—mang thai những câu hỏi.

Hơn nữa, Socrates như chôra còn được xác định bởi khả năng chịu đựng: ông không chỉ áp đặt nghi ngờ hay biện chứng lên người đối thoại, mà còn mang trong mình dấu ấn (dấu vết) họ để lại. Chân lý không tồn tại—những gì còn lại chỉ là những dấu vết. Socrates chính là không gian mẫu tính tiếp nhận chúng. Ông không chỉ mang thai nghi ngờ mà còn mang thai tất cả những dấu vết đó. Socrates là bình chứa của nghi ngờ và dấu vết—ông là “bà mẹ” của cộng đồng lý tính.

Dựa trên đó, mối quan hệ giữa trật tự phụ quyền và không gian mẫu tính bị đảo ngược: không phải Logos thánh thiện hạ xuống thành tự nhiên ẩm ướt bẩn thỉu rồi phải được tái thiêng hóa để đạt được sự cứu rỗi; ngược lại, chính không gian mẫu tính liên tục nuôi dưỡng thành bang lý tính cùng các địa tầng lịch sử của nó. Trật tự phụ quyền đúng hơn là một trường vấn đề, nơi không hề có tính xác định tuyệt đối (hay tính vĩnh hằng bất biến) của chân lý (xem cách Deleuze DR xử lý khái niệm “vấn đề”). Mọi người cùng tổ chức trật tự biểu tượng (khung lý giải, tức kiến thức) xung quanh một “vấn đề tiên nghiệm,” và tất cả chúng ta đều là những đứa trẻ để lại dấu ấn trong thành bang ấy và lịch sử của nó. Thế nhưng, kẻ tiếp nhận mọi dấu ấn đó chính là Mẹ—tức bản thân trường vấn đề kia. Lao động hữu hạn và thể chế lịch sử đều là “những đứa con” sinh ra từ “vấn đề.”

( dịch) Blanchot- một số suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thực

Phụ lục: Bài viết này được xuất bản lần đầu năm 1945 trên tạp chí L'Arche, số 8, với tựa đề "Một vài suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thự...