Sự ra đời của triết học ở Hy Lạp cổ đại là kết quả của sự kết hợp giữa hai yếu tố: một mang tính kinh tế, và một thuộc về khí hậu.
Kinh tế: Mặc dù triết học không được "xây dựng" trên chế độ nô lệ, nhưng chính chế độ này đã tạo ra thời gian rảnh rỗi cần thiết cho việc thực hành tư duy, một năng lực của linh hồn mà ta gọi là triết học. Trong Phaidon, Plato gọi điều này là σχολή (scholē), có thể dịch là "nhàn rỗi," "thời gian tự do," hay thời gian được giải phóng khỏi những yêu cầu sản xuất.
Trong Phaidon, Plato không đưa ra lý lẽ biện minh cho chế độ nô lệ, và triết học không xuất hiện như "đứa con của nô lệ." Tuy nhiên, triết học hưởng lợi từ chế độ này, xuất hiện như một hệ quả bất ngờ của nô lệ (một điều gắn liền với các nhu cầu của chiến tranh). Plato đã kết nối σχολή (thời gian rảnh rỗi) với triết học và liên hệ thân xác con người với một dạng nô lệ mà những nhu cầu của nó làm chúng ta xa rời khả năng triết lý (Phaidon, 66 c-d).
Trong lập luận của Plato, có một cấu trúc chiasmus (giao thoa) gắn kết linh hồn (tư duy, triết học) và nhàn rỗi (σχολή) với nhau, đồng thời đối lập chúng với thân xác và nô lệ (δουλεύοντες, như Plato viết), tức là đối lập với cả chiến tranh: triết học mang tính tự do và hòa bình.
Khí hậu: Triết học ra đời bên bờ Địa Trung Hải và có lẽ chỉ ở những vùng đầy nắng này, triết học mới có thể mang ý nghĩa mà người Hy Lạp đã hình dung. Trong Phaedrus (258e-259b), Plato để Socrates nói:
"Có vẻ chúng ta đang có thời gian rảnh rỗi (σχολὴ). Và nữa, những chú ve trên cao đang hát, chúng đối thoại với nhau và dường như đang nhìn chúng ta. Nếu chúng thấy cả hai chúng ta, giống như phần lớn mọi người, giữa trưa ngừng trò chuyện, lim dim và để tiếng ve ru ngủ tinh thần mỏi mệt, chúng sẽ chế nhạo chúng ta, và chúng có lý. Chúng sẽ nghĩ rằng những kẻ nô lệ (ἀνδράποδον) đã đến ngủ trưa bên cạnh chúng, như những con cừu đang nghỉ ngơi gần một dòng suối. Nhưng nếu chúng thấy chúng ta đối thoại và đi ngang qua chúng như con tàu vượt qua những nàng Nhân ngư mà không bị cám dỗ, có lẽ chúng sẽ ngưỡng mộ mà ban tặng chúng ta phần thưởng mà các vị thần đã cho chúng để trao lại cho con người."
Đoạn văn này thể hiện rõ ràng sự kết nối giữa khí hậu và thời gian rảnh rỗi, đối lập với chế độ nô lệ và chiến tranh (ἀνδράποδον, ám chỉ những người bị bắt trong chiến tranh và bị bán làm nô lệ). Tiếng ve như tiếng hát của các nàng Nhân ngư, Socrates so sánh mình với Ulysses, và triết gia lang thang qua một dạng thế giới của ý tưởng, giống như người thủy thủ đi qua biển Địa Trung Hải.
Socrates dường như nói rằng không có sự khác biệt cơ bản nào giữa những cuộc hành trình của Ulysses và các phép đối lập (dichotomies) của ông: cả hai đều thuộc về cùng một vũ trụ, cùng một cách nhìn nhận thế giới, kết nối với nó, băng qua và khám phá nó. Để triết lý, ta cần đánh mất mình trong thời gian bị bỏ rơi ấy — thời gian của sự lang thang, tản bộ, tìm đường, tìm lời, trở nên khéo léo, mưu trí, mở rộng mọi giác quan với thế giới.
Bên ngoài, tiếng người huyên náo, tiếng còi xe, tiếng pháo và âm bass trộn lẫn trong một bản hợp xướng hỗn loạn đầy mãn nguyện. Tôi tự hỏi: Làm thế nào những con người như vậy có thể có ý tưởng? Và tôi biết câu trả lời. Nhưng điều đó không tử tế lắm. Dẫu sao cũng mặc kệ. "Chúc mừng năm mới," như người ta vẫn nói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét