Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2024

Giờ đã điểm, ác quỷ nào sẽ đến để ra đời đổi kiếp ở Bethlehem?




Tuyển tập luận văn của Hassan 1967–1989 đã thể hiện một sự chuyển hướng trong quan điểm, nhưng nhìn chung đã cung cấp – hay chính xác hơn, đã tạo ra – thứ mà chúng ta ngày nay thường hiểu là chủ nghĩa hậu hiện đại. Điều đáng buồn là, những gì tôi (chúng ta) đang bàn luận hôm nay chẳng phải đều là những vấn đề mà người ta đã bàn từ bốn, năm mươi năm trước sao? Không chỉ đối tượng thảo luận là như vậy, mà ngay cả phương pháp cũng chẳng có gì đổi mới.  


Đơn giản nhất, Hassan định nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại dựa trên 11 yếu tố: **tính bất định, tính phân loại, phi chú giải, phi tự ngã và phi chiều sâu, không thể biểu hiện/không thể tái hiện, trớ trêu (đa âm, ngụ ngôn, tự phản tư, ngẫu hứng, tình cờ), lai ghép, tính lễ hội, tính trình diễn và tham dự, kiến tạo luận, và tính nội tại**, trong đó **bất định–nội tại** là nguyên tắc cốt lõi. Dẫu đã đưa ra nhiều định nghĩa khó xác định như vậy, thậm chí liệt kê một bảng so sánh dài giữa chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại ở các trang 184–185 (nhưng bỏ sót cặp "chọn lọc–kết hợp"), Hassan vẫn không thể tránh được việc rơi vào loại hiện thực luận mà Lyotard đã phê phán. Một số tác phẩm hậu hiện đại, theo Hassan, thực chất lại là hiện thực luận, hay "hiện thực luận của chủ nghĩa tư bản đương đại," vì những phong cách chiết trung, "mọi thứ đều được chấp nhận," hay ghép nối và pha trộn trong đó thực ra chỉ phục vụ các chức năng tiêu dùng kinh tế. Điều này có thể thấy trong một số bài viết mang tính nhại lại trong sách này (dù các bài viết khác tốt hơn, chẳng hạn bài đầu tiên *Văn học của sự im lặng* đã trực tiếp diễn giải và tổng kết mối quan hệ giữa văn học và sự im lặng vào năm 1967, thể hiện sự nhạy bén và sâu sắc của Hassan như một nhà phê bình). Việc Hassan là một người Mỹ gốc Ai Cập có lẽ cũng góp phần mở rộng tầm nhìn của ông, nhưng ông đã không đi sâu hơn vào các vấn đề này, và chẳng lạ gì khi cuối cùng Hassan lại hướng tới chủ nghĩa thực dụng.  


Về phong cách viết, Hassan khá nguyên sơ, trực tiếp, thô ráp nhưng tràn đầy nhiệt huyết. Đây cũng là một trong những lý do tôi không thích cái gọi là hậu hiện đại theo nghĩa này, giống như việc một nhà văn trực tiếp phơi bày chính mình trong tác phẩm – một điều khiến người ta cảm thấy khó chịu. (Các đại từ nhân xưng thường dùng "anh ấy.") Những văn bản kiểu này chưa thể gọi là tác phẩm, cùng lắm chỉ là bản nháp, và đây chính là điểm mà hậu hiện đại nhằm vào truyền thống: không trau chuốt, không qua chuyển hóa hay biến dạng. Thế nhưng, dù có nền tảng hay không, sự chuyển hóa và biến dạng ít nhất cũng thể hiện một quá trình, một sự trưởng thành – điều mà chủ nghĩa hậu hiện đại phản đối. Vì vậy, tôi vẫn thiên về "hậu hiện đại sớm" mà ông phân loại, "thấm đẫm khí chất tiên phong lạnh lùng, rời rạc" (trang 355). Những văn bản kiểu này, cũng như thời đại sản sinh ra chúng, dường như không thể tồn tại lâu dài, mà chỉ có thể hiện diện trong khoảnh khắc – như chính điều mà Hassan mô tả về tính tham dự, phi nền tảng và chưa hoàn thiện của hậu hiện đại.  


Tính tức thời này cũng chính là một trong những lý do khiến Hassan cuối cùng chọn chủ nghĩa thực dụng. (Dĩ nhiên, nhà phê bình khác nhà văn; cái mà nhà phê bình cần chẳng phải chính là tính tức thời sao?) Tuy nhiên, Hassan đã phân biệt giữa chủ nghĩa tương đối thực dụng của Rorty và chủ nghĩa đa nguyên thực dụng của James, đồng thời nghiêng về phía sau, gọi tư tưởng mà ông yêu thích là "Chủ nghĩa Tân Ngộ đạo." Theo ông:  

> "Khi các bộ phận của thế giới được duy trì bằng một mối liên hệ rõ ràng nào đó, thế giới là 'một'; khi các bộ phận ấy không tìm thấy mối liên hệ rõ ràng để gắn kết với nhau, thế giới là 'nhiều.' Tuy nhiên, theo thời gian, năng lượng con người sẽ liên tục tạo ra những hệ thống kết nối, và thế giới cuối cùng sẽ trở nên ngày càng thống nhất trong những liên kết ấy." (*trang 340*)  



Dẫu Hassan phủ nhận yếu tố tôn giáo trong "tính nội tại" (một trong những hạt nhân của hậu hiện đại, được ông định nghĩa là khả năng tự khái quát bản thân của tâm trí qua ký hiệu), tôi lại rất đồng tình với quan điểm rằng sự thần bí cần phải được khôi phục. Thế giới ngày nay tẻ nhạt chẳng phải vì nó đã mất đi sự thần bí sao? "Ai cũng đang mơ về tổ tiên của mình, để tái tạo lại bản thân." (*trang 77*). Về điểm này, Bruno Schulz đã sớm đi trước một bước.  


Tái bút: Hình ảnh con thú đi về phía Bethlehem được sử dụng nhiều lần trong sách (chẳng hạn như P308) hóa ra là từ "Sự tái lâm của Chúa Kitô" của Yeats: loại quái vật nào cuối cùng đã chờ đợi thời điểm thích hợp và uể oải đi về phía Bethlehem để được giáng sinh.*




*:And what rough beast, its hour come round at last,
Slouches towards Bethlehem to be born?
("The Second Coming"-William Butler Yeats)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

( dịch) Blanchot- một số suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thực

Phụ lục: Bài viết này được xuất bản lần đầu năm 1945 trên tạp chí L'Arche, số 8, với tựa đề "Một vài suy ngẫm về chủ nghĩa siêu thự...