Khi màn đêm buông xuống, người ta không biết sự khẩn trương có phải đồng nghĩa với việc điều được mong đợi đã trở về. Há chẳng phải nó đã từng báo trước sự xuất hiện của chính mình sao? Và việc báo trước sự đến, chẳng phải, theo một cách nào đó, chính là đã hiện diện nơi đó rồi sao? Người ta không rõ liệu sự mong đợi ấy có đang chuẩn bị cho sự đến của một tương lai sẽ đến; hay đúng hơn, là đang hồi tưởng lại cùng một điều, cùng một thực thể ma quái ấy trong sự tái diễn ("Cái gì cơ! Thứ đó lại xuất hiện đêm nay sao?"). Sự không biết này không phải là một khiếm khuyết. Không có bất kỳ tiến bộ nào trong tri thức có thể lấp đầy một khởi đầu vốn hoàn toàn không liên quan đến nhận thức, và do đó, cũng không liên quan đến sự không-biết. Khởi đầu ấy phải duy trì tính dị thể của nó, như một lời khẳng định—hoặc đúng hơn, như một sự tái khẳng định—về cơ hội duy nhất của cái sẽ đến. Khởi đầu chính là tương lai tự thân, nó đến từ tương lai. Tương lai chính là ký ức của khởi đầu.
Sự mong đợi vô thời hạn, mong đợi không chờ đợi gì hoặc không còn mong đợi nữa, sự hiếu khách không có khách, tạo ra một lời chào đón tiên phong đầy kinh ngạc đối với kẻ sẽ đến—người (hoặc vật) mà ta sẽ không đòi hỏi bất cứ hồi đáp nào, cũng không yêu cầu bất kỳ một sự ký kết nào với bất kỳ quyền lực có thể hứa hẹn nào (gia đình, quốc gia, dân tộc, vùng miền, quê hương, huyết thống, ngôn ngữ, văn hóa nói chung, thậm chí là nhân tính)—một sự từ bỏ đích thực đối với mọi quyền sở hữu, mọi quyền lực nói chung, một sự từ bỏ đối với điều sắp tới—vốn là một biến cố không thể được mong đợi, và chính vì thế không thể được nhận biết trước, một biến cố của kẻ ngoại lai, mà người ta luôn phải dành sẵn một khoảng trống trong ký ức của hy vọng—đó chính là chủ nghĩa cứu thế cởi mở, và cũng chính là lãnh địa của tính ma quái. Một sự hiếu khách không có khách—chính điều đó mới là điều kiện của biến cố, và do đó là điều kiện của lịch sử (nếu không, sẽ không có điều gì và không có ai từng đến, và đó là một giả định không thể bị bác bỏ). Biến cố này là điều không thể, và điều kiện khả thể của nó cũng chính là điều kiện của bất khả thể, giống như một dạng chủ nghĩa cứu thế không có đấng cứu thế, một khái niệm kỳ lạ, nơi mà nó dẫn đường cho ta như một kẻ mù.
Dù tương lai bất định đến thế nào đi nữa, thì nó luôn bất định theo nghĩa rằng: “sự tồn tại của tương lai là tất yếu”; tức là, vẫn có một vài tương lai, và một vài lịch sử—có lẽ, như cách mà chúng từng hiện ra cho đến nay—được chuẩn bị cho một khởi đầu lịch sử vượt lên cả nhân loại và lịch sử, dành cho con người hậu-lịch sử. Cần phải nhấn mạnh cách nhìn đặc biệt này, vì nó cho thấy sự thiếu vắng hoàn toàn của cái gọi là “tính đặc thù”, và bày tỏ tính bất định vẫn luôn là dấu hiệu nền tảng của tương lai: bất kể hình thức hay nội dung của “trách nhiệm” này ra sao, thì tính tất yếu đó—mệnh lệnh, chỉ dẫn, lời thề, lao động, lời hứa—cái tất yếu của lời hứa ấy, cái "nó là tất yếu" ấy, chính là quy luật. Ở đây, sự không phân biệt về mặt nội dung không phải là một sự vô sai biệt; trái lại, chính vì nó đánh dấu mọi khởi đầu của biến cố, mọi khởi đầu của tương lai, nên nó xác lập một sự quan tâm đối với bất kỳ điều gì, chứ không phải sự vô quan tâm trước bất kỳ điều gì. Nếu không có cái vô sai biệt này, sẽ không có chủ đích, không có nhu cầu, không có ham muốn, v.v. Khái niệm ấy—khái niệm mà cho đến nay vẫn nằm ngoài mọi cái được gọi là lịch sử—chính là khái niệm về tương lai, tương lai không bị xác định bởi nội dung. Bề ngoài, nó có vẻ “hình thức luận”, nhưng trên thực tế, trong chính tính tất yếu của nó—vốn là được hứa hẹn, được chỉ định, được truyền lệnh—trong tính tất yếu hình thức của tính khả thể của nó—nói cách khác, trong quy luật—nó có thể khiến ta suy tư về chính tính tất yếu thuần túy và hình thức thuần túy của tương lai. Chính quy luật này đã trục xuất mọi cái hiện diện ra khỏi tính đồng đại của chúng với chính mình. Bất kể lời hứa có hứa cái này hay cái kia, bất kể nó được thực hiện hay không, hoặc thậm chí hoàn toàn không thể được thực hiện—thì vẫn có những lời hứa, và do đó, có một tính lịch sử của tương lai sắp đến, vốn mang tính tất yếu. Đấng cứu thế không có chủ nghĩa cứu thế chính là cái biệt danh mà chúng ta đã đặt cho điều ấy.
Ta thà nói đến "lời gọi của Đấng Cứu Thế" hơn là “chủ nghĩa cứu thế” để nhấn mạnh một cấu trúc của kinh nghiệm chứ không phải một tôn giáo, nơi mà không có một hình tượng nào của kẻ sẽ đến—ngay cả khi họ được báo trước là sẽ đến—lại có thể được xác định trước, được hình dung, hay được gọi tên. Chủ nghĩa khổ hạnh từ chối mọi hy vọng cứu thế theo hình thức Kinh thánh, từ chối mọi hình ảnh có thể xác định được của sự chờ đợi hay kỳ vọng, và do đó cũng từ chối chính phản hồi của nó trước điều có tính ứng dụng tuyệt đối ấy, từ chối lời “vâng” đối với kẻ đến và từ chối sự đáp lời đối với cái đến của tương lai không thể tiên đoán. Tính ứng dụng ấy là điều công khai, chờ đợi một biến cố như là công lý, và chỉ khi luôn tỉnh thức với chính tính phổ quát của mình thì nó mới trở nên tuyệt đối. Còn “lời gọi của Đấng Cứu Thế”, kể cả trong hình thức cách mạng của nó (bởi lời gọi ấy thường mang tính cách mạng, và cũng phải là cách mạng), chắc chắn là khẩn thiết, cấp bách, nhưng cũng là một nghịch lý không thể quy giản, một sự chờ đợi không có viễn cảnh để chờ đợi.
-từ văn bản gốc: Specters of Marx , tác giả J Derrida
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét